Hiển thị các bài đăng có nhãn Tin tức. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tin tức. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 24 tháng 10, 2013

10 loại cây cảnh giúp gia chủ phát tài

Theo phong thủy, yếu tố mộc trong không gian sống có thể mang lại những tác dụng tính cực cho tài lộc và cho gia chủ.

Vì vậy phong cách bố trí không gian luôn có những khoảng xanh trong ngôi nhà để mang đến may mắn cho chủ nhân.


1. Hoa cúc

Trồng những chậu cúc nhỏ hay cắm hoa cúc có thể giúp ổn định phúc khí trong nhà. Cũng lưu ý rằng, hoa cúc nên đặt nơi có nhiều ánh sáng trong nhà để sự may mắn thêm mạnh mẽ và rực rỡ. Ngoài ra, nguồn năng lượng mà hoa cúc đem lại khiến cho gia chủ có một cuộc sống bình dị và cân bằng trong mọi việc. Đồng thời, nó cũng mang đến may mắn cho ngôi nhà.


2. Hoa đồng tiền

Cây hoa đồng tiền còn gọi là cây kim tiền. Trong những dịp đầu xuân năm mới, nếu trồng hoa hoặc cắm hoa đồng tiền sẽ mang đến nhiều tài lộc và tiền của cho gia đình. Là biểu tượng của mùa xuân. Chúng cũng rất hữu ích trong việc lọc khí benzen – thường có mặt trong nhiều loại sơn. Vì thế, nếu bạn vừa sơn lại phòng, nên đặt một chậu hoa đồng tiền để loại bỏ các hạt benzen lơ lửng trong không khí.


3. Hoa đỗ quyên

Loại cây này cũng dễ sống, hoa lá nhiều và có gai. Đỗ quyên không chỉ có tác dụng hóa giải những hình khí xấu nơi ban công mà còn có tác dụng mang đến nhiều vận may cho gia chủ.


4. Nha đam

Hình dáng cây thân phát triển hướng lên trên với ý nghĩa mang đến sức mạnh, có tác dụng hóa giải hình sát mạnh bên ngoài.


5. Cây thuộc họ cam, chanh

Các loại cây thuộc họ cam, chanh thích hợp đặt ở cửa ra vào để mang đến nguồn tiền tài dồi dào. Hơn nữa, quả cam, chanh… giống như một kiểu “mộc nhãn” giúp chủ nhân tinh tường, nhìn ra được cơ hội làm ăn, dự đoán được các nguy cơ trong công việc để hóa giải.


6. Cây kim tiền

Được coi là loại cây “phú quý”, có tác dụng chiêu tài nên kim tiền rất thích hợp làm quà tặng trong những dịp mừng lễ, tết, thăng chức, khai trương. Nếu cột lên cây vài sợi chỉ đỏ hoặc vài đồng tiền vàng (tượng trưng) thì sẽ trở thành cây phát tài, có ý nghĩa về mặt phong thủy và rất đẹp mắt. Nên bày cây ở hướng Đông, Đông Bắc trong nhà ở, phòng hội họp, văn phòng, nhà hàng, khách sạn.


7. Vạn niên thanh

Vạn niên thanh sống lâu năm mà vẫn xanh tốt, mùa đông lá không héo úa nên được coi là loài cây cát tường, sử dụng rộng rãi. Dùng vạn niên thanh trong ngày lễ tết là ngụ ý sung túc tốt đẹp, trong việc hôn nhân là cầu chúc như ý, trong lễ mừng thọ là để chúc sống lâu. Tuy nhiên, không nên trồng cây vạn niên thanh trong nhà, đặc biệt là phòng ngủ vì cây có chất độc, khi vô tình bị nhựa cây dính vào mắt, da sẽ gây bỏng rát, nhất là trẻ nhỏ.


8. Cây thường xuân

Là loại cây xanh tốt quanh năm, thường xuân có sức sống rất mãnh liệt, ngay cả trong mùa đông giá rét. Vì vậy, nó được xem là loại cây rất tốt theo phong thủy, là món quà thích hợp cho những dịp như lễ tết, thi cử, mừng thọ, mừng thăng chức, khai trương. Ngay cả trong tình yêu, đây cũng là quà tặng đầy ý nghĩa. Theo quan niệm dân gian, một công dụng khác của dây thường xuân là khả năng trừ tà. Chính vì thế nó cũng là loài cây mang lại bình an, may mắn cho gia chủ.


9. Cây lộc vừng

Theo cha ông xưa thì “Lộc” ứng với tài lộc, “Vừng” ứng với nhỏ nhưng nhiều. Hoa màu đỏ tượng trưng cho hỷ sự, tức là chuyện vui trong nhà. Tóm lại, cây lộc vừng có ý nghĩa mang lại nhiều lộc, nhiều niềm vui trong gia đình. Nên trồng cây ở sân trước, vị trí thoáng đãng cả 4 phía để tán cây phát triển đều.


10. Cây phất dụ

Cây phất dụ còn được gọi là cây phát tài (do cách đọc của người Trung Quốc: phất dụ đồng âm với phát tài), trong phong thủy, đây là loài cây mang lại may mắn cho gia chủ. Trồng cây phất dụ (phát tài) không nên trồng trong nhà vì lá cây này nếu dùng trong nhà nhiều sẽ không tốt cho sức khỏe, tuy nhiên, một chậu cây nhỏ thì không ảnh hưởng lắm. Bạn nên trồng phất dụ ở phía Đông hoặc Đông Nam ngôi nhà – khu vực đại diện cho Mộc và là nơi có ánh sáng thích hợp cho cây.

Nguồn: (Văn hóa)

Giải mã sự thật về loài cá ở suối Cá Thần

(Văn hóa) - Đàn cá ở đây rất dạn người, thấy thức ăn là tung mỏ lên đớp, thậm chí đớp cả thức ăn trên tay người.
Từ thành phố Thanh Hóa, thẳng quốc lộ 45 khoảng 70 km sẽ gặp đường mòn Hồ Chí Minh, đi khoảng 15 km nữa đến cầu treo Cẩm Lương nối ngang dòng sông Mã, uốn quanh núi Trường Sinh. Đến đây, đã có bảng chỉ đường vào đến suối Cá Thần (dân ở đây mà chủ yếu là người Mường sinh sống gọi là Mó Ngọc).

Loài cá trong sách đỏ

Cá Thần hay còn gọi là suối Ngọc trải dài ra đến tận sông Mã (khoảng 2 km). Riêng khu vực “cá thần” xuất hiện chỉ khoảng 60 m tính từ cửa hang. Chiều rộng của suối là 3m. Mực nước ở đây khoảng 40cm, nước trong vắt nên ở khu vực cá không ra tới, có thể nhìn rõ những viên sỏi và rêu. Chúng tôi đến nơi khi trời đã xấp xế chiều, trời khá lạnh (khoảng 150C).
Người dân bản địa cho hay, thời tiết này cá ra ít lắm, chỉ khi nào trời nắng to, cá mới thích ra ngoài “rong chơi và tắm nắng”. Thế nhưng chúng tôi vẫn thấy từ cửa hang hàng ngàn con cá lúc nhúc chui ra, con nhỏ nhất khoảng 1kg, con lớn chừng 5 kg. Lạ là dù dòng suối không có be đập nhưng đàn cá cũng chỉ quanh quẩn ở cửa hang và chơi với khách.


Đàn cá đang chơi đùa

Chúng tôi mua một ít rau và bỏng ngô của những người dân tộc bán quanh đó để “làm quen” với cá. Đàn cá ở đây rất dạn người, thấy thức ăn là tung mỏ lên đớp, thậm chí đớp cả thức ăn trên tay người. Cảm giác như không có khoảng cách giữa người và loại cá được gọi là thần này.

Hình dáng của cá nhìn tựa như cá trôi, vẩy đen, lưng sẫm màu xanh rêu, thân căng tròn ở phần giữa, môi có màu phớt hồng. Nhìn hình dáng bên ngoài, loài cá này có vẻ hơi kỳ quái, không giống với những loại cá thông thường. Những người bán hàng xung quanh Mó Ngọc nói đây là cá trắm nhưng dân bản địa gọi là cá dốc (cá dóc) có họ hàng với cá dốc sông Mã.

Hiện nay, loài cá này có trong Sách đỏ Việt Nam với cái tên khoa học là Spinibarbichthys Denticulatus. Những nhà thám hiểm của Việt Nam và nước ngoài đến đây ngày càng nhiều nhưng vẫn không lý giải được rất nhiều câu hỏi: cá ăn gì để sống, tại sao cá không đi xa, tuổi thọ của cá là bao nhiêu, khi chết, xác cá trôi về đâu, sao cá lại thân thiện với con người đến vậy…

Gọi là cá gì đi nữa thì người dân xung quanh suối Ngọc vẫn tin rằng, cá ở suối này không phải là cá thường mà là cá thần, nếu ai ăn nó hoặc bắt nó sẽ bị báo ứng.

Những người bán hàng dọc suối thường kể những chuyện đại loại như: Có hai cha con nhà nọ bắt cá làm thịt. Khi thả vào nồi, cá liền tan thành nước. Hay 2 chàng thanh niên không tin những chuyện cho là ‘thêu dệt phi lí’ liền bắt 2 con cá mang về, giữa đường bị tai nạn chết bất đắc kỳ tử…

Một bà người dân tộc Mường ngồi gần đó nói giọng dân tộc pha Kinh lơ lớ: “Thử uống nước đi, nước rất ngọt và không tanh, cả bản này sống bằng nước ở suối này đấy”. Tôi muốn kiểm chứng lời bà nói, đưa tay vục nước nhưng không dám uống mà ngửi, thật ngạc nhiên giữa lúc nhúc cá như vậy nhưng nước vẫn trong suốt và không có mùi tanh.


Người ta tin rằng, ai ăn cá này sẽ bị báo ứng

Cá thần – sự thật hay huyền thoại?

Cách hang đá nơi cá chui ra khoảng 10 m, tôi nhác thấy người đàn bà, quần xoắn tận bẹn đang nhặt rác trên suối. Bà là Nguyễn Thị Nông, 63 tuổi, mọi người trong bản sợ giẫm phải cá, cả gia đình sẽ không may mắn nên không ai dám xuống suối, bà nhận làm công việc vớt rác này đến nay cũng đã ngót 42 năm.

Tôi định bắt chuyện bà để hỏi về suối cá này, vì với tuổi đời của bà ít ra cũng biết được ít nhiều hoặc nguồn gốc những con cá ở đây. Nhưng bà nói người hiểu chuyện nhất về suối cá là một cụ ông trong bản.

Theo lời chỉ dẫn của bà, tôi đến gặp cụ Dương Cách, 82 tuổi (Chủ tịch Hội Người cao tuổi xã Cẩm Lương). Ông lão gầy nhom, hom hem nhưng giọng nói rất khỏe và không kém phần hóm hỉnh. Ông bắt đầu câu chuyện về suối cá thần bằng một truyền thuyết mà có thể người dân ở bản này ai ai cũng biết: ngày xưa ông Mường – một người giàu có trong làng, có một người con gái đặt tên là nàng Ngọc.

Bao nhiêu trai tráng con nhà danh giá trong làng thầm thương trộm nhớ, nàng Ngọc lại đi yêu chàng Khôi. Chàng Khôi nhìn tướng tá khôi ngô, có tài thổi sáo nhưng lại quá nghèo.

Ông Mường không chấp nhận chàng Khôi làm rể, ông thách cưới bằng cách đòi chàng Khôi phải mang 100 trâu đến làm sính lễ đón dâu. Chàng Khôi buồn bã bỏ đi lang thang. Nàng Ngọc ngày đêm thương nhớ chàng nên bỏ nhà ra đi. Lần theo tiếng sáo của chàng Khôi, cuối cùng nàng cũng tìm thấy chàng Khôi đang ngồi thổi sáo bên suối Ngọc. Cả hai thề nguyền sống chết có nhau nên cùng nhảy xuống suối để quyên sinh.


Ông Dương Cách đang kể chuyện

Ông Mường không thấy con gái bèn cho người đổ đi khắp các ngả rừng để tìm. Đi đến đoạn cuối cùng của suối Ngọc (giờ là suối cá thần) thì tìm thấy một ống sáo nằm ven suối. Dưới suối là hai con cá tung tăng bơi lội, một cá đực và một cá cái. Cá cái có khoen tai bên mang, ông nhận ra đó là của con gái mình.

Ông Dương Cách hồ hởi: “Không biết chuyện thực hư thế nào, chỉ biết suối cá khi tôi sinh ra đã có rồi. “Lịch hoạt động” của đàn cá rất đều đặn, sáng ra suối, tối vào hang; có cá Mẹ rất to ở hang gần đỉnh núi Lương…

Để khẳng định điều này, ông quay sang một cụ bên cạnh: “Chính mắt tôi đã nhìn thấy cá Mẹ to bằng tàu lá chuối nhưng nhiều năm rồi chưa thấy nó ra trở lại. Cả đời tôi sinh ra, lớn lên ở đây cũng chỉ mới gặp cá Mẹ có một lần thôi. Đó là năm 1975, cụ nhỉ?”.

Ông cụ ngồi bên cạnh đang mãi ăn bánh, miệng cười móm mém như một đứa trẻ, gật gù. Ông kể tiếp: “Năm đó nước lớn lắm. Trước khi cá ra, dòng nước ở cả đoạn suối dài này đục ngàu lên. Cá to như cái thùng, khiến người dân nhìn thấy hoảng sợ mà bỏ chạy. Tuy nhiên, cá chỉ ra khoảng 10m rồi quay đầu trở về hang. Sau lần đó, sống gần hết đời người ở đây, tôi chưa bao giờ thấy lại”.

Chúng tôi hỏi về những chuyện huyền bí liên quan đến suối cá thần, ông Dương Cách kể: “Vào năm 1967, sư đoàn 335 đóng quân tại huyện Thạch Hành, Thanh Hóa. Trong một lần hành quân, vừa đến suối Ngọc thì trời tối nên quyết định nghỉ lại đây qua đêm. Một thanh niên phát hiện dưới suối có nhiều cá liền lội xuống bắt cá lên nướng. Ngay sau đó, anh thanh niên kêu đau bụng rồi mạch cứ yếu dần đến chết”.

Trường hợp khác, có hai vợ chồng kia, đi ngang qua suối thấy nhiều cá nên liền bắt một con về nấu canh. Sau khi làm thịt cá bỏ vào nồi đun chín, đến bữa ăn, họ mở nắp nồi thì thấy nước trong veo, không có miếng cá nào trong nồi. Thấy lạ nhưng người chồng vẫn ăn. Ăn xong liền thấy khó chịu và sau đó không lâu thì qua đời…

Từ những câu chuyện được truyền miệng với nhau, cộng với truyền thuyết về “thần cá” nên người Mường càng tin cá chính là thần linh. Và chính những câu chuyện này đã khoác lên suối cá thần một vẻ đẹp đầy tính huyền bí.

Tiễn chúng tôi ra cổng, ông hóm hỉnh: “Hai đằng ấy mà yêu ai, gia đình không đồng ý, cả hai cứ đến đây xin thần cá. Về nhà là có cưới hỏi ngay thôi! Thần cá linh thiêng lắm nên trai gái trong làng đều đến khấn xin thần!”.


Loài cá Dốc quý hiếm có trong danh sách đỏ

Để tìm một lý giải khác, chúng tôi đến gặp ông Phạm Hồng Đức (85 tuổi), là người trông coi đền thờ rắn. Ông sống ở suối cá này đã ngót 80 năm, ông khẳng định: “Suối cá này có lâu lắm rồi, từ thế kỷ thứ 11. Khoảng thời gian đó có một trận mưa rất to. Có hai nguồn nước, một nguồn từ suối chảy xuống, một nguồn từ sông đổ vào. Cá của suối Ngọc bây giờ chính là cá từ sông chảy vào. Do đây là đoạn trũng nhất của suối nên khi nước rút, cá bị kẹt lại, không thoát ra ngoài được. Từ đó, đàn cá sinh sôi nảy nở ngày càng nhiều.

Vào khoảng năm 1958, có một đoàn thám hiểm vào hang để nghiên cứu. Họ thấy bên trong có hai nguồn nước nóng và ấm. Cá sống đông đúc ở nguồn nước ấm. Họ đoán chừng bên trong hang sâu có lượng thức ăn dồi dào nuôi sống cá. Riêng với những chuyện thần bí về suối cá, chỉ là nghe truyền miệng lại chứ không có bất cứ kiểm chứng nên tôi cũng không biết rõ thực hư thế nào”.

Khi tôi hỏi: “Ăn cá có chết như người ta nói không?”, ông cụ chép miệng: “Ăn cá mà chết thì tôi chả sống đến tận bây giờ. Chả qua là thịt cá bở, không có mùi vị như những loại cá khác”. Ông chỉ tay ra xa: “Muốn ăn cá, ra sông Mã mà bắt, thiếu gì. Cá vừa ngon vừa phong phú, làm gì phải ăn cá này!”.

Khi nghe tôi thắc mắc, người dân ở đây nói chưa bao giờ thấy cá chết và khẳng định đó là cá thần, ông Phạm Hồng Đức cũng cho biết, chuyện cá suối Ngọc không chết bao giờ là phi lý, có điều, người ta ít thấy cá chết tại suối, có thể chúng chết ở một hang hốc nào đó, hy hữu mới thấy một vài chú cá “bỏ mạng” bên suối. Những lúc như thế, người già trong làng đã vớt lên, đem vào đền lễ, xin phép thần Rắn rồi chôn ở cái gò gần suối, có đánh dấu mộ đàng hoàng.

Chiều tà, ông dõi mắt nhìn ra chiếc cầu bắc ngang suối cá thần vào đền thờ rắn. Ông chỉ một đôi trai gái đang dắt tay nhau đi qua cầu: “Họ đến để cầu duyên đấy! Nơi này linh lắm! Rồi họ sẽ được ở bên nhau trọn đời!”.

Tôi lại thấy sự mâu thuẫn trong chính những gì ông vừa nói. Tôi nhìn theo hướng tay ông, cảm giác yên bình lan tỏa. Và tôi tin, những gì bạn có được khi vượt qua chặng đường dài để đến đây là niềm tin về hạnh phúc, về bình yên cho đôi lứa.

(VTC)

Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2013

Chuẩn bị triển khai dự án rừng và đồng bằng Việt Nam

Sáng nay (30/05), UBND tỉnh có buổi làm việc với dự án rừng và đồng bằng Việt Nam do Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ về việc chuẩn bị triển khai thực hiện dự án rừng và đồng bằng Việt Nam (VFD) tại Nghệ An. Tham dự buổi làm việc, về phía dự án có Ông Mack Fenn - Đại diện tổ chức Winrock tại Việt Nam, Giám đốc dự án cùng các thành viên. Tiếp và làm việc với dự án VFD có đồng chí Đinh Viết Hồng - Phó chủ tịch UBND tỉnh, đại diện các sở, ngành liên quan.

Quang cảnh buổi làm việc
Dự án rừng và đồng bằng Việt Nam sẽ được triển khai tại 4 tỉnh: Nam Định, Long An, Thanh Hóa và Nghệ An. Tổng số vốn dự kiến của dự án là 29.028.704 USD, thực hiện trong 5 năm, từ tháng 6/2013 đến tháng 10/2017. Mục tiêu của dự án là nhằm thúc đẩy sự chuyển đổi của Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu để phát triển bền vững và hạn chế phát khí thải.

Tại buổi làm việc, đồng chí Đinh Viết Hồng - Phó chủ tịch UBND tỉnh cho biết: Hiện nay, Nghệ An có 1.173.000 ha đất quy hoạch cho sản xuất lâm nghiệp, chiếm trên 70% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Việc phát triển sản xuất lâm nghiệp góp phần quan trọng đối với công tác bảo vệ môi trường sinh thái, phòng chống xói mòn, hạn chế thiên tai, lũ lụt, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho hàng vạn hộ dân. Tuy nhiên, chất lượng rừng tự nhiên đang có xu hướng giảm, khả năng phòng hộ hữu hiệu của rừng chưa cao nên mức độ điều tiết nguồn nước ngăn chặn lũ ống, lũ quét, bào mòn xói lở đất… bị hạn chế. Việc được tham gia dự án sẽ thúc đẩy ngành lâm nghiệp Nghệ An phát triển, đặc biệt giúp Nghệ An ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm ngắn hạn tổng khí thải nhà kính, nâng cao năng lực cho các cơ quan và tổ chức liên quan.

Đồng chí Phó chủ tịch UBND tỉnh cảm ơn VFD đã lựa chọn Nghệ An là một trong các tỉnh tham gia dự án. Tỉnh Nghệ An sẽ hỗ trợ nguồn vốn đối ứng và phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để thực hiện dự án thành công, góp phần phục vụ tốt môi trường sống trong thời gian tới.

Nguồn: http://nghean.gov.vn/wps/portal/!ut/

Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2012

Tiềm năng du lịch Nghệ An

Các khu di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia:

Với điều kiện tự nhiên đa dạng và phong phú về địa hình, Nghệ An có nhiều lợi thế để phát triển du lịch. Phía Tây Nghệ An là các khu du lịch gắn liền với các khu bảo tồn thiên nhiên Pù Mát, Pù Huống, hoặc các danh thắng tự nhiên như thác Sao Va, thác Khe Kèm…





Vẻ đẹp hoang sơ của VQG Pù Mát



Thác Sao Va (ở huyện Quế Phong)



Thác Khe Kèm (ở huyện Con Cuông)

Phía Đông Nghệ An là một loạt các bãi tắm đẹp trải dài từ bãi Quỳnh Phương - Quỳnh Lưu đến Diễn Thành - Diễn Châu, Cửa Hiền - Nghi Lộc và nổi tiếng hơn cả là bãi biển Cửa Lò.

Biển Cửa Lò

Một số khu du lịch mới hình thành, có chất lượng cao và được nhiều du khách biết đến như khu resort Bãi Lữ (tai xã Nghi Yên - huyện Nghi Lộc) hoặc khu du lịch biển Diễn Thành (huyện Diễn Châu) đang tiếp tục phát triển và khẳng định uy tín.

Trong tâm thức của người dân cả nước, Nam Đàn là vùng “địa linh nhân kiệt”- cái nôi của phong trào yêu nước, quê hương của Mai Thúc Loan, Phan Bội Châu, Chủ tịch Hồ Chí Minh… và là vùng đất có bề dày lịch sử lâu đời.



Lễ Hội Làng sen

Ở Nam Đàn hầu hết các di tích - danh thắng trên địa bàn huyện đều gắn liền với tên tuổi của các bậc tiền bối đã có những cống hiến lớn lao trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc như: Bến Sa Nam; Đền thờ, Mộ vua Mai; Nhà lưu niệm Cụ Phan Bội Châu; Dấu tích của thành Lục Niên; Khu mộ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp; Núi Chung... và đặc biệt là quê Bác - Khu di tích Kim Liên - nơi tuổi thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh được tái hiện qua các di tích lưu niệm về Người. Tất cả các di sản đã phần nào nói được cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, người con ưu tú bậc nhất của xứ sở Lam Hồng và của đất nước Việt Nam.

Quê Nội Bác Hồ



Quê Ngoại Bác Hồ

Thành phố Vinh hấp dẫn du khách bởi một quần thể khu du lịch với những nét đặc trưng tiêu biểu của một đô thị xứ Nghệ như: Quảng trường Hồ Chí Minh; lâm viên núi Quyết, rừng Bần Tràm chim Hưng Hoà; Bảo tàng Xô viết-Nghệ Tĩnh, Bảo tàng Quân khu 4, Bảo tàng Tổng hợp Nghệ An; Công viên Nguyễn Tất Thành, Công viên Trung tâm, Khu vui chơi giải trí du lịch Hồ Cửa Nam; Ngoài ra còn có vùng du lịch phụ cận với những điểm đến như: Đài liệt sỹ Xô Viết-Nghệ Tĩnh (Thái Lão), Nhà lưu niệm cố Tổng bí thư Lê Hồng Phong; đền Hồng Sơn; chùa Cần Linh; Đền thờ vua Quang Trung; Đền thờ và mộ Ông Hoàng Mười, núi Hồng và sông Lam…



Lễ công bố năm du lịch Nghệ An




Đường ven Sông Lam

Khu du lịch sinh thái Bãi Lữ



Đền thờ Vua Quang Trung trên núi Dũng Quyết





Núi Hồng - Sông Lam
Các tuyến du lịch chủ yếu trên địa bàn tỉnh:

Thứ Năm, 19 tháng 4, 2012

Tiềm năng phát triển

Về vị trí địa lý, Đô lương nằm về phía Tây bắc tỉnh Nghệ An, nơi tiếp giáp giữa các huyện đồng bằng với các huyện miền núi tạo thành trung tâm kinh tế với 3 tuyến giao thông quan trọng: Đường 7A, 15A, và đường 46 tại thị trấn Đô Lương, vùng cầu Tiên và Ba ra Đô Lương trở thành một trung tâm kinh tế - văn hoá, thương mại có nhiều tiềm năng, triển vọng phát triển kinh tế và không gian đô thị có tầm cỡ một thị xã trong tương lai.
Tiềm năng đất đai đa dạng, khoáng sản có trữ lượng lớn nhất như đá vôi, cát sạn, đất sét, sứ và cao lanh, các kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật trải qua 25 năm đổi mới đã được đầu tư tương đối đồng bộ tạo thành nguồn lực cho sự phát triển.




Đất rộng, người đông, địa hình phức tạp, vừa có đồng bằng vừa có miền núi, vừa có vùng ven sông, vừa có vùng bán sơn địa, mỗi vùng có những đặc điểm sinh thái riêng tạo nên một nền nông nghiệp đa dạng với 4 loại cây con, 4 nhóm sản phẩm chủ yếu đó là: cây lương thực; cây ăn quả, thực phẩm; cây công nghiệp; cây nguyên liệu. Trâu, bò, lợn, cá, gia cầm và 4 nhóm sản phẩm là: lương thực; thực phẩm; hàng tiêu dùng mỹ nghệ; vật liệu xây dựng.

Đô lương có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp như hang Mật Trắng, đập Đá Bàn (Bài Sơn), đập Khe Du (Hoà Sơn), đập Khe Ngầm (Lam Sơn), Nước khoáng nóng (Giang Sơn), Bãi Bồi (Tràng Sơn), lèn đá Thung (Trù Sơn). Những thắng cảnh thiên nhiên là những công trình kinh tế phục vụ đời sống con người, nằm cạnh các di tích lịch sử văn hóa như Đền Quả, Đền Đức Hoàng, nhà thờ Thái Phó Tấn Quốc Công Nguyễn Cảnh Hoan, Thái Bá Du, khu di tích Truông Bồn, và cạnh các vùng núi đá, đập Ba ra Đô Lương, Cống Mụ Bà..v.v...tạo thành khu du lịch văn hoá, sinh thái hấp dẫn. Các món ẩm thực ở Đô Lương mang hương vị đặc sản đồng quê đã có từ xa xưa.

“Muốn ăn khoai sọ chấm đường
Xuống đây mà ngược Đò Lường cùng anh
Đò Lường bến nước trong xanh
Gạo ngon, lúa tốt bến thành ngược xuôi”.

Đô Lương có hệ thống giao thông thuận tiện, nếu thực hiện 1 tua du lịch từ Cửa Lò về thành phố Vinh, thăm quê Bác, lên Đô Lương tắm nước nóng Giang Sơn, đến cột mốc số 0 đường mòn Hồ Chí Minh bạn có thể đi bất cứ nơi đâu kể cả sang nước bạn Lào.
Do có địa thế như vậy nên thị trường ở Đô Lương cũng phát triển rất sớm, men theo các quốc lộ và triền sông lam hệ thống chợ nông thôn cũng rất trù phú, nhưng nổi tiếng vẫn là chợ Lường và chợ Trung tâm thương mại huyện Đô Lương về sự đô hội của nó.




Đô Lương là vùng đất văn hoá, nổi tiếng hiếu học, chính những tên đất, tên làng Bạch Ngọc, Văn Khuê, Văn Lâm, Văn Tràng, Rú Bút, Hòn Nghiên, Hòn Mực.v.v...từ lâu đã được nhân dân hình tượng hoá thể hiện sự khát vọng vươn tới và thích học hành, đỗ đạt khoa bảng, với triết lý “học để biết, biết để làm người” điều đó lại được chắt lọc chưng cất qua bao thế hệ trở thành truyền thống hiếu học và tôn trọng nhân tài của nhân dân Đô Lương ngày nay.

Trong những năm vừa qua, được sự quan tâm của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND, các sở, ban ngành cấp tỉnh và phát huy năng động, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, Huyện uỷ, UBND huyện Đô Lương đã đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng khai thác mọi tiềm năng lợi thế, gắn sản xuất với thị trường, phát triển bền vững, điều đáng ghi nhận là trong sản xuất nông nghiệp đã hình thành 3 sản phẩm chủ yếu là: cây lương thực, thực phẩm, tơ tằm.

Hình thành các khu CNN nhỏ- TTCN. Trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, hệ thống chợ nông thôn được nâng cấp, cải tạo đáp ứng nhu cầu trao đổi mua bán trên thị trường; một số chợ vùng có tầm cỡ như chợ Năn (Giang Sơn), chợ ú (Đại Sơn), chợ Vịnh (Thái Sơn), Trung tâm thương mại huyện được đầu tư xây dựng và hoạt động có hiệu quả. Hoạt động tài chính và thu ngân sách hàng năm đều đạt và vượt dự toán tỉnh giao, chi ngân sách đảm bảo đúng mục đích và theo hướng tiết kiệm chống lãng phí, hoạt động các HTX tín dụng và các Ngân hàng chuyên doanh đều đáp ứng đủ nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế - xã hội, cho các chương trình dự án.

Với những tiềm năng và thế mạnh sẵn có, Đô Lương đang tiếp tục phấn đấu xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị ngang tầm với nhiệm vụ, đẩy mạnh CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn và có bước đốt phá mới, bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả bền vững, phấn đấu đến 2011 tổng giá trị sản xuất đạt 4.255 tỷ đồng, nhịp độ tăng trưởng bình quân 14%, cơ cấu kinh tế: Nông- lâm- ngư nghiệp = 32,42%, Công nghiêp = 23,19%, dịch vụ = 44,39%, sản phẩm bình quân đầu người đạt 22,79 triệu đồng, tổng sản lượng lương thực ổn định ở mức 91.000 tấn; tổng đàn trâu bò 54.500 con và đàn lợn 107.000 con, nâng độ che phủ rừng lên 44,3%. Nâng cao chất lượng hệ thống các công trình, kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật, bảo đảm môi trường chính trị ổn định, kinh tế phát triển, an ninh trật tự được giữ vững, có cơ chế tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong giải phóng mặt bằng tạo điều kiện cho các khu công nghiệp, khu du lịch sớm hình thành và phát huy hiệu quả, thu hút đầu tư vào Đô Lương đồng thời chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để thị trấn Đô Lương sớm trở thành thị xã.

http://www.nghean.vn